Tranh đồng, khuê văn các – A045

Giá: 1,750,000 VNĐ

Mã sản phẩm: A045

Kích thước: 53*73 cm

Tình trạng: Còn hàng

Chi tiết

Mẫu bán tại Bắc Ninh – Hà Nội

 

Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, thì Văn Miếu – Quốc Tử Giám là di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, tiêu biểu cho Hà Nội và cũng được coi là biểu tượng cho văn hóa lịch sử Việt Nam, nơi thờ kính các bậc Tiên Thánh, Tiên nho và đào tạo nhân tài cho đất nước. Văn Miếu – Quốc Tử Giám: Trường đại học cổ nhất Việt Nam, nơi hội tụ nguyên khí quốc gia Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng vào thời nhà Lý, thế kỷ XI. Với chức năng là nơi thờ Khổng Tử với những nghi lễ tế trang trọng được tổ chức hàng năm, vừa là nơi đào tạo bồi dưỡng tri thức Nho học của Nhà nước. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một cơ quan rất quan trọng của triều đình thời bấy giờ. Những người được bổ nhiệm đứng đầu Văn Miếu – Quốc Tử Giám đều là những Đại Khoa, những nhà khoa bảng lớn, có tri thức và tài năng đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của đất nước và dân tộc. Với bề dày gần 1000 năm, nơi đây đã đào tạo nên hàng ngàn các bậc đại khoa, hiền tài cho đất nước. Là một trung tâm giáo dục lớn nhất nước ta thời xưa, Văn Miếu – Quốc Tử Giám đồng thời cũng là nơi hun đúc nên bao truyền thống văn hóa giáo dục quý báu trong đó có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, truyền thống trọng hiền tài của dân tộc. Cũng vì thế, các thế hệ người Việt Nam xưa và nay đều tôn vinh Văn Miếu – Quốc Tử Giám là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam. Theo Đại Việt sử ký, vào mùa thu năm Canh Tuất – 1070, Vua Lý Thánh Tông đã cho khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc tiên thánh tiên hiền, các bậc nho gia có công với nước, trong đó có thờ Khổng Tử – người sáng lập ra nền nho giáo phương Đông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Đồng thời bổ nhiệm những vị quan giỏi văn vào Văn Miếu để giúp các hoàng tử, các con em quan lại.

 

 

Năm 1075, đời vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Tam trường đầu tiên ở nước ta. Khoa thi này chọn được 10 người giỏi nhất, đỗ đầu là Nguyễn Văn Thịnh người làng Đông Cứu (Bắc Ninh) sau này ông làm quan tới chức Thái sư. Năm 1076, Vua Lý Nhân Tông quyết định khởi xây Quốc Tử Giám – một trường Nho học cao cấp nhất hồi bấy giờ nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự chọn lựa đầu tiên của triều đình phong kiến Việt Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con người Việt Nam theo mô hình Nho học châu Á. Năm 1086, đời vua Lý Nhân Tông lại mở khoa thi. Mạc Hiển Tích người làng Lũng Động (Chí Linh, Hải Dương) đỗ đầu, sau này làm quan tới chức Thượng thư, Đại học sĩ. Triều Lý rất quan tâm đến việc đào tạo, nên nền Nho học cũng bắt đầu thịnh lên từ đấy. Triều Trần (1233) đời Trần Thái Tông mở khoa Thái học sinh (sau này là Tiến sĩ), đến năm 1252 nhà Trần mở rộng chọn thêm những Nho sinh ưu tú trong dân thường được vào học tại Văn Miếu, giảng Tứ thư, Ngũ kinh và học thêm cả võ nghệ. Thời kỳ này nhà giáo Chu Văn An được mời vào giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Ông đã biên tập nhiều sách quan trọng làm nội dung giảng dạy các Nho sinh. Thời kỳ này nhà Trần đặt lại thứ bậc trong thi cử, đỗ bậc nhất có Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Năm 1253, vua Trần Thánh Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học viện, đồng thời lấy đây làm nơi giảng dạy cho con em vua quan và những người học giỏi trong cả nước. Dưới triều Trần, trường quốc học Giám được nâng dần tới mức đại học và chính thức được đặt tên là Thái Học viện. Suốt ba thế kỷ Triều Lê, trường Quốc học không hề đổi chỗ, hằng năm đón học sinh khắp nơi vào học. Và cứ mỗi khoa thi, cửa nhà Thái Học lại treo bảng ghi tên những người đậu tiến sĩ. Sau đó, các vị tân khoa, trước khi về vinh quy bái tổ đều được dự nghi lễ bái yết ở Văn Miếu do triều đình tổ chức. Thời Hậu Lê, Lê Thái Tổ (Lê Lợi) vừa lên ngôi đã quan tâm ngay đến việc giáo dục, đã tuyển chọn các Nho sinh ưu tú ở các nơi vào Quốc Tử Giám để được các thầy giỏi giảng dạy. Nhà Lê còn khuyến khích dựng trường, mở lớp ở các nơi, để nâng cao dân trí. Đời Lê Thánh Tông (1483) cho phát triển in sách, đặt ra lệ khắc tên tuổi Tiến sĩ vào bia đá cho những người thi đỗ từ năm 1442, mỗi khoa thi một tấm bia. Đời vua Lê Hiển Tông (1779) vẫn còn tất cả 116 tấm bia đá trên lưng rùa đá. Do chiến tranh, các bia đá thất lạc, nay chỉ còn 82 bia. Trong những tấm bia ấy, nhiều chỗ bị Triều Nguyễn đục xóa bỏ đi những người đỗ thời Chúa Trịnh và thời Tây Sơn. Cuối năm 1976, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một con rùa đế bia chìm dưới lòng hồ cạnh khuê Văn Các. Thân bia chưa tìm thấy song con rùa đế bia đã nâng số bia tiến sĩ lên 83. Năm 1802, nhà Nguyễn cho xây thêm Khuê Văn Các để các nhà Nho làm thơ và bình thơ. Không chỉ nhằm tôn vinh đạo học, mỗi tấm bia ở Văn Miếu còn là một tác phẩm điêu khắc, một tác phẩm nghệ thuật thư pháp độc đáo. Văn bia đều do các bậc đại danh nho soạn. Với lời văn hàm súc, ý tứ sâu sa, văn bia đề khoa thi Nhâm Tuất do Hàn lâm viện Thừa chỉ Thân nhân Trung soạn cách đây 517 năm được coi là tuyên ngôn của nền giáo dục nước nhà: ” Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các bậc thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên”. Sử cũ ghi rằng: Vị trí của chính điện và Nhà Thái Học vẫn ở vị trí từ khi khởi dựng từ đời Lý nhưng quy mô các công trình kiến trúc được mở rộng thêm nhiều. Năm 1483, vua Lê Thánh Tông cho làm thêm điện Đại Thành, hai nhà giải vũ Đông Tây, nhà chứa ván in sách, kho tế khí, nhà Minh luân. Năm 1716, các công trình trên được Thám hoa Nguyễn Quý Đức tôn tạo lại. Năm 1717, ông đứng ra trông coi dựng 20 tấm bia tiến sĩ từ khoa thi 1656 đến 1715. Đến thời Nguyễn, Quốc Tử Giám dời vào kinh đô Huế, Văn Miếu Thăng Long đổi gọi là Văn Miếu Bắc thành, nhà Quốc Tử Giám đổi làm đền Khải Thánh, đến thời Thành Thái (1889-1907) kiêm làm Văn chỉ huyện Thọ Xương. Chính vì những thay đổi ấy mà tấm biển lớn ở cổng trước để là Thái Học Môn được thay bằng Văn Miếu Môn. Trong những năm dưới triều Nguyễn, Thăng Long không còn là kinh đô nhưng Văn miếu – Quốc Tử Giám vẫn được các quan đầu tỉnh chăm sóc, tôn tạo. Khuê Văn Các được dựng năm 1805 đời Gia Long, trước làm bằng gỗ, khoảng niên hiệu Minh Mạng (1820-1840), Tổng đốc Hà Nội Đặng Văn Hòa cho xây dựng lại bằng gạch rỗng, quy cách thanh thoát, rộng đẹp. Năm 1863, Bố chính Hà Nội Lê Hữu Thanh, tổng đốc Hà- Ninh Tôn Thất Hân cùng Án sát Hà Nội Đặng Tá thu nhập các bia tản mát, dựng thành hàng ở hai bên giếng Thiên Quang (mỗi bên hai hàng 41 tấm). Lại làm hai nhà bia, mỗi nhà 11 gian để che mưa nắng, nhưng chỉ được ít năm, hai nhà bia trên đã không còn nữa. Những năm thực dân Pháp chiếm Hà Nội, hai vườn bia có lúc hoang vắng, cỏ dại mọc cao lút đầu. Năm 1947, quân Pháp bắn đại bác phá hủy hoàn toàn đền Khải Thánh, dấu tích của hai trường đại học đầu tiên chỉ còn nền điện, những bức tường đổ, vài chiếc cổng cuốn lở lói. Từ ngày giải phóng năm 1954, nhận rõ giá trị đặc biệt của di tích, Sở văn hoá Hà Nội đã liên tục từng bước tu sửa và bảo vệ khu di tích Văn Miếu. Chiều ngày mồng một Tết Nhâm Dần (5-2-1962), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới thăm Văn Miếu và dự Chương trình ca nhạc “Mừng Đảng mừng Xuân”. Năm 1987, năm đầu tiên của thời kỳ đổi mới toàn diện của đất nước, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã tới thăm Văn Miếu và chỉ ra “những việc cần làm ngay” ở khu di tích này. Năm 1990, tại Văn Miếu đã thành lập Trung tâm hoạt động khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Năm 1999, để kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội (1010-2000), nhà nước ta cho xây dựng lại khu Thái Học – Văn Miếu theo lối kiến trúc cổ, thờ các vị vua: Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và Nhà giáo Chu Văn An là những người có nhiều công giữ gìn và bồi đắp nền Nho học trong trường Đại học đầu tiên của nước ta. Nơi thờ Chu Văn An Ngày nay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám là nơi rằm tháng Giêng hằng năm Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức báo cáo kết quả của nền văn học trong năm và bình những bài thơ hay. Đây là nơi nhà nước tổ chức trao các hàm, học vị: Giáo sư, Viện sĩ, Tiến sĩ… cho những trí thức mới. Hằng năm, cứ sau kỳ tốt nghiệp bậc đại học, thủ khoa của các trường được về Văn Miếu – Quốc Tử Giám để Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội trao bằng khen và tham quan rất nhiều hoạt động trong lĩnh vực văn hóa được tổ chức tại Văn Miếu. Đặc biệt, khách nước ngoài từ khắp các lục địa cũng về đây hằng ngày để tham quan và tìm hiểu trường Đại học đầu tiên của Việt Nam, Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Văn Miếu – Quốc Tử Giám, cái nôi của nền giáo dục khoa cử Việt Nam, sau 930 năm chứng kiến bao thăng trầm nay trở lại về với vẻ đẹp xưa. Hình ảnh gác Khuê Văn nay đã trở thành biểu trưng chính thức của Thủ Đô Hà Nội, từ lâu đã in đậm trong tâm khảm của người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước. Văn Miếu – Quốc Tử Giám: Di tích của nghìn năm văn hiến Tọa lạc trên khuôn viên hơn 54.000m2, khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm giữa bốn dãy phố, cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phố Tôn Đức Thắng, phía Tây là phố Văn Miếu. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lý. Các nhà nghiên cứu ngày nay đều thống nhất nhận định rằng quy mô, vị trí hiện tại của Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn tương tự như thời mới xây dựng. Những lớp kiến trúc của Văn Miếu hiện còn đều là kiến trúc thời Hậu Lê và đầu triều Nguyễn. Bờ tường gạch bao quanh Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây bằng gạch vồ, loại gạch phổ biến thời Hậu Lê, Hồ Văn trước đây còn có tên là Minh Đường là nơi tụ khí huyệt, đảo Minh châu nơi thường diễn ra những buổi ngâm vịnh bình thơ của các văn nhân sĩ tử thời xưa. Ở cạnh trường học nên vườn Giám chính là nơi nghỉ ngơi hoặc diễn ra các sinh hoạt sau giờ học của các học trò Quốc Tử Giám. Quần thể kiến trúc được quy tụ trong một khuôn viên rộng rãi với năm khu chính nối tiếp nhau chủ yếu trên trục dọc: từ Văn Miếu môn đến Đại Trung môn, Khuê Văn các, Thiên Quang tỉnh, Vườn bia, khu Đại Thành điện, Đại Bái đường, Hậu cung và khu nhà Thái học. Khu vực thứ nhất gồm có Văn hồ (hồ văn); Văn Miếu môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng có ba cửa, cửa giữa to cao và xây hai tầng, tầng trên có ba chữ Văn Miếu môn.  Phía nam, trước mặt Văn Miếu là hồ Minh Đường hay Văn hồ dân gian thường gọi là hồ Giám. Chính quyền thành phố Hà Nội đã cố gắng giải toả, nhưng hiện nay diện tích cũng chỉ còn được 12297 m2, giữa hồ có gò Kim Châu, trên gò dựng Phán Thuỷ đường (là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa). Theo ý đồ kiến trúc, đây vốn là cái “tiểu minh đường” của Văn Miếu, là một bộ phận khăng khít của toàn bộ công trình kiến trúc chung. Khu thứ hai, từ cổng chính đi thẳng vào cổng thứ hai là Đại Trung môn, bên trái là Thánh Dực môn, bên phải có Đạt Tài môn. Tiếp trong là Khuê Văn Các (được xây dựng vào nǎm 1805). Từ cổng chính Văn Miếu môn, vào không gian thứ nhất gọi là khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng thứ hai là Đại Trung môn. Ngang hàng với Đại Trung môn bên trái có Thành Đức môn, bên phải có Đạt Tài môn. Theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh trước đây hai cổng tả môn và hữu môn ở phía trước và bằng Đại Trung môn, Thánh Dực môn và Đạt tài môn ở phía sau. Hai bên tả hữu của cả khu Văn Miếu, cùng với tường ngang nơi Văn Miếu môn tạo thành một khu hình gần vuông có tường vây khép kín ra vào bằng Văn Miếu môn. Trong khu vực này trồng cây bóng mát gần kín mặt bằng. Hai chiếc hồ chữ nhật nằm dài sát theo chiều dọc bên ngoài. Khuê Văn Các Con đường thẳng từ Văn Miếu môn tới Đại Trung môn lại vươn tiếp thẳng tới Khuê Văn Các. Từ hai cửa Đạt Tài và Thành Đức ở hai bên cửa Đại Trung, hai con đường nhỏ hơn song song chạy thẳng với con đường trục giữa, chia khu vực thứ hai này thành 4 dải khá cân bằng. Việc lặp lại một khu vực chỉ có cây có cỏ, việc làm thêm dãy tường ngăn và làm thêm lớp cửa ra vào, được các nhà kiến trúc cho là rất thành công trong ý đồ tạo nên cảnh thâm nghiêm, tĩnh mịch của khu vực kiến trúc. Khu thứ ba là giếng Thiên Quang (Thiên Quang tỉnh có nghĩa là giếng trời trong sáng). Tại khu vực này có 82 bia Tiến sĩ dựng thành hai hàng, mặt bia quay về giếng, là một di tích thật sự có giá trị. Thiên Quang tỉnh còn được gọi là Văn Trì (Ao Văn). Thiên Quang nghĩa là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho giếng, người xây dựng có ý muốn nói con người thu nhận được tinh túy của vũ trụ, soi sáng tri thức, nâng cao phẩm chất, tô đẹp nền nhân văn. Giếng hình vuông, quanh bờ đều xây hàng lan can tới độ ngang lưng. Người xưa còn có quan niệm giếng hình vuông tượng trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời cả đất đều được tập trung ở trung tâm văn hóa giáo dục uy nghiêm giữa chốn đế đô này. Một con đường nhỏ lát gạch bao quanh giếng cho phép người ta có thể dạo quanh giếng, lên gác Khuê Văn, vào cửa Đại Thành hoặc rẽ sang 2 vườn bia đá ở 2 bên. Bia Tiến sĩ Nhưng có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở hai bên phải trái của giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đều quay về phía giếng. Việc chạm khắc chữ Hán trên bia là một công trình nghệ thuật đặc sắc. Trán bia cong thường có hình hai rồng chầu mặt nguyệt, rồng được cách điệu rất tinh tế trở thành những đám mây uyển chuyển, sinh động. Diềm bia được trang trí hoa văn hình hoa lá cách điệu kết hợp với chữ triện. Đế bia hình rùa tạo hình vững chãi, bền chắc mang ý nghĩa trường thọ, vĩnh cửu. Hình tượng con rùa biểu thị cho sự trường tồn vĩnh cửu… Rùa, theo Từ điển biểu tượng thế giới, là thuộc nam tính và nữ tính: thuộc loài người và vũ trụ, ý nghĩa biểu trưng của nó trải rộng ra khắp các miền của trí tưởng tượng. Mai rùa phía trên như bầu trời, giống như biểu tượng của mái vòm, phía dưới phẳng như mặt đất. Riêng thế cũng đã có thể minh chứng rùa như một biểu tượng đầy đủ của vũ trụ. Qua cửa Đại Thành là vào khu vực thứ 4, cửa Đại Thành cũng mở đầu cho những kiến trúc chính như hai dãy Tả Vu và Hữu Vu, chính giữa là Toà Đại Bái đường, tạo thành một cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và truyền thống. Xưa, đây là nơi thờ những vị Tổ đạo Nho. Cửa Đại Thành (cửa của sự thành đạt lớn lao), mở đầu cho khu vực của những kiến trúc chính, nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất thập nhị hiền v.v… và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa, mang một cái tên đầy ý nghĩa tưởng không còn có thể chọn một tên nào có ý nghĩa hay hơn. Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mang lát gạch Bát Tràng. Hai bên phải trái của sân là 2 dãy Hữu Vu và Tả Vu. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn và thâm nghiêm trải suốt chiều rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu , Hữu Vu 2 bên, tạo thành cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và thuyền thống. Sau Đại Bái Đường, song song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện, có quy mô tương tự cả về chiều cao lẫn bề rộng. Đại Bái Đường nối với Thượng Điện bằng một Tiểu Đình hình vuông. Nếu tách riêng cụm 3 kiến trúc này ra mà nói thì chúng được xây dựng theo hình chữ công mà Tiểu đình chính là nét sổ giữa và Đại Bái Đường, Thượng Điện là 2 nét ngang trên và dưới. Khu thứ năm (khu trong cùng) là nơi giảng dạy của trường Quốc Tử Giám thời Lê, nhiều thế hệ nhân tài “nguyên khí của nước nhà” đã được rèn giũa tại đây. Khi nhà Nguyễn dời trường Quốc học vào Huế, nơi đây dùng làm đền thờ Khi Thánh (cha mẹ Khổng Tử), nhưng ngôi đền này đã bị hư hỏng hoàn toàn trong chiến tranh… Bố cục của toàn thể Văn Miếu như vậy muộn nhất là cũng có từ đời Lê (thế kỷ 15 – thế kỷ 18). Riêng Khuê Văn Các mới được dựng khoảng đầu thế kỷ 19, nhưng cũng nằm trong quy hoạch tổng thể vốn có của những Văn Miếu (như Văn Miếu ở Khúc Phụ, Trung Quốc, quê hương của Khổng Tử, có đủ Ðại Trung Môn, Khuê Văn Các, Ðại Thành Môn, Ðại Thành Ðiện, bia tiến sĩ…). Khuê Văn Các ở Văn Miếu Hà Nội thường là nơi tổ chức bình các bài văn thơ hay của các sĩ tử. Nằm trong khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, 82 bia đá về các khoa thi tiến sĩ luôn được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như lịch sử, văn hóa, giáo dục, triết học, pháp luật, ngôn ngữ văn tự thời kỳ quân chủ tập quyền ở Việt Nam. Đặc biệt, tiêu đề của bia viết theo lối triện thư, một thể chữ truyền thống của Trung Hoa hình thành thời Chiến Quốc và ngày nay ít được sử dụng. Kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một khu di tích đặc biệt của thủ đô Hà Nội, được bao quanh bởi những viên gạch vồ cỡ lớn. Tổng thể công trình ẩn hiện dưới những vòm cây toát lên một không khí thâm nghiêm cổ kính và rất đỗi huyền bí. Lối vào chính khu Văn Miếu là Văn Miếu môn (cổng phía Nam) có dạng cổng tam quan cao hai tầng, có cổng chính và hai cổng phụ, tạo nên một tổng thể kiến trúc uy nghi nhưng không kém phần thanh thoát. Hai phía trước cổng có bia hạ mã (xuống ngựa), nhắc nhở người quân tử và những người qua lại không ngồi trên ngựa hoặc trên xe để tỏ lòng thành kính nơi tôn thờ. Trên bức tường hoa ở cuối lớp không gian thứ nhất (từ Văn Miếu môn đến Đại Trung môn) có ba cửa đi: cửa Đại Trung (lấy tên đầu hai bộ sách quan trọng của Khổng tử: Đại học, Trung dung) là cửa giữa. Hai bên là cửa Thành Đức (trở nên đạo đức), cửa Đạt Tài (trở nên tài giỏi). Cửa Đại Trung có cấu trúc khung gỗ, mái ngói, bậc thềm bó đá. Lấp ló phía sau là Khuê Văn các in hình trong Thiên Quang – ánh sáng của trời. Sự tuyệt diệu của Khuê Văn các chính là bởi ý nghĩa biểu trưng: Các là lầu; Khuê là sao Khuê, là biểu tượng của vị thần phụ trách; Văn là cái đẹp, cũng có nghĩa là văn hóa. Văn hóa là thành tựu mà con người mô phỏng, phóng tác từ quy luật tự nhiên theo sự sáng tạo khác nhau. Nhìn nhận một cách hữu hình, có thể hiểu: Khuê Văn các (ở phía Nam) là đứng ở trên lầu nhìn ra 4 phương 8 hướng. Hình tròn và hình vuông với 8 tiếp điểm thể hiện sự gắn bó giữa quy luật và thực tế nhằm phục vụ con người. Có thể coi đây là tượng đài ca ngợi vẻ đẹp của văn chương, một nét đẹp rực rỡ toả sáng soi bóng dưới “mặt gương lớn” và duyên dáng thêm với những điểm tô của vườn bia. Với đường nét kiến trúc cân đối, hài hòa giữa các tỉ lệ và bộ phận cấu thành, Khuê Văn các đã được chọn làm biểu trưng cho văn hiến Hà Nội, ban ngày thì cao sang tuyệt đẹp, ban đêm dưới ánh đèn chiếu sáng, gác Khuê Văn trở nên lung linh huyền diệu, soi bóng xuống mặt hồ Thiên Quang tỉnh (Giếng trời trong sáng). Gương nước lớn có khả năng soi bóng hình ảnh tuyệt đẹp của Khuê Văn các, chính là cách tiếp cận Văn Miếu – Quốc Tử Giám dưới tính đa diện và sự phân tích nguồn gốc căn nguyên của nguyên tắc hình thể: “Gương nước” ở giữa phản chiếu ánh sáng bầu trời, là sự hàm ý thu nhận văn hóa khai thác để khống chế ánh sáng của trời nhằm phục vụ cho đạo học của con người. Nằm ở giữa trung tâm khu Văn Miếu, tấm gương nước có thể soi bóng tổng thể công trình kiến trúc với hiệu quả thẩm mĩ cao nhất, bộc lộc một nét đẹp độc đáo của kiến trúc hòa quyện với trời mây trong sáng. Khuê Văn các, Đại Thành môn, Vườn bia… đều in hình trong đó như thách thức với thời gian, như gợi mời những nhân tài đất Việt tạo thêm nét duyên dáng vốn có của kiến trúc Văn Miếu. Người xưa đã xây dựng công trình Văn Miếu – Quốc Tử Giám thuận theo lẽ âm – dương – trời – đất và tự khẳng định chính là nơi hội tụ nhân tài, là một quần thể kiến trúc độc đáo nơi địa linh nhân kiệt. Khởi nguồn từ địa thế: (đứng trên cao) mở rộng tầm nhìn ra 4 phương 8 hướng, từ cõi hư vô suy xét khai thác ánh sáng vẻ đẹp của trời đất mà phục vụ cho sự học của con người – học làm người, tinh luyện văn hóa vật chất mà gây dựng văn hóa tinh thần nhằm tiến tới thành tựu tuyệt diệu cuối cùng của sự tu luyện học vấn một cách đạt thành. Ý nghĩa của công trình Khuê Văn các và các mối quan hệ với Thiên Quang tỉnh và Đại Thành môn đã thuận theo quan điểm tứ trụ, không nằm ngoài ý nghĩa hướng đạo người quân tử. Đó là do quan điểm tứ trụ mà thành: Thiên – địa – nhân. Con người phải đem (trí tuệ) để hài hòa thiên – địa – nhân, đem tri thức để giúp đời mới là người có tri thức. Tư tưởng Nho giáo do Khổng tử – nhà giáo dục tư tưởng lớn của Trung Hoa với Tứ Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu) đã tập hợp những tư tưởng triết lý, luân lý đạo đức mà cái phép lớn nhất là phép ứng xử: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… Các khoa thi, các vị Tiến sĩ của nền giáo dục xưa được ghi danh lại nơi những văn bia; những câu đối, những môtíp trang trí không chỉ đơn thuần làm đẹp mà còn là sự nhắc nhở những điều hay lẽ phải. Tất cả đều là đạo đức cổ nhân. Giá trị thẩm mỹ của kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám không chỉ được tạo bởi không gian kiến trúc đột phá nhưng lại hòa quyện với không gian xung quanh nó mà hơn nữa là sự kết hợp hài hòa giữa đạo và đời, là thành phẩm của công trình kiến trúc vĩnh cửu trước thời gian. Đó là một hệ thống văn hóa tinh thần bao quanh kiến trúc, là sự kết hợp trọn vẹn của văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Văn Miếu – Quốc Tử Giám với đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội Văn Miếu – Quốc Tử Giám ngày nay đã trở thành một khu di tích đặc biệt quan trọng, một địa chỉ du lịch văn hóa nổi tiếng của Thủ đô, hàng năm thu hút được hàng triệu lượt khách tham quan trong nước và quốc tế. Văn Miếu – Quốc Tử Giám cũng là điểm văn hóa du lịch được đón các đoàn khách quốc tế và nguyên thủ các nước đến thăm nhiều nhất. Xác định giá trị đặc biệt của quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, những năm qua, Thành phố và Ngành văn hóa – thông tin đã đầu tư khá nhiều kinh phí cho nơi này. Nhờ vậy, đã phục dựng lại khu Nhà bia, Nhà Thái học, dựng tượng thờ các danh nhân, xây dựng nhà Chuông, nhà Trống…. Đặc biệt là cải tạo lại hồ Văn – vườn Giám, những công trình trọng điểm của di tích. Chính sự quan tâm đầu tư này đã góp phần gìn giữ, tôn tạo các giá trị độc đáo của Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Nhằm hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, đồng thời cũng để đánh thức tiềm năng, phát huy tác dụng của di tích, tới đây, Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám sẽ triển khai dự án: “Khai thác phát huy giá trị di tích”. Theo đó sẽ tiến hành quy hoạch lại đảo Minh Châu, trên đảo sẽ xây nhà Bát giác là chỗ họp mặt, bình thơ của các văn sĩ. Xây dựng hai chiếc cầu đá đặt cạnh nhau (Song Kiều) nối giữa đảo Minh Châu với bờ. Trên lan can và thành cầu có trang trí các họa tiết hoa lá, cảnh vật, các điển cố Nho học, các giai thoại văn học – giáo dục nổi tiếng của nước nhà. Có thể coi đây là một “nhịp cầu văn học” (Văn Kiều) xung quanh hồ Văn, sát tường đặt những tấm bia đá, hoặc ốp lát vào tường thành bia, trên đó trích dẫn những bài thơ, phú, bài văn nổi tiếng, khắc họa chân dung các nhà văn hóa giáo dục, các sự tích học hành, thi cử… tất cả nhằm tạo cho hồ Văn có được cái Hồn Văn của nó. Tại khu vườn Giám, do lợi thế nằm ngay sát khu vực chính của di tích nên hướng phát huy hiệu quả cũng dễ hơn. Trung tâm sẽ nghiên cứu tái hiện tại đây nhiều những hoạt động trưng bày mang tính giáo dục truyền thống về lịch sử Văn Miếu – Quốc Tử Giám như: Các cảnh học tập vui chơi, giao lưu văn hóa của trường Quốc Tử Giám ngày xưa. Các hoạt động được định hướng theo ý nghĩa xã hội và ý nghĩa lịch sử sẽ gắn khu vườn Giám với khu Nội tự. Ví dụ như phối hợp với các ngành giáo dục tổ chức các hoạt động như trao bằng tốt nghiệp, lễ báo công, tuyên dương học sinh giỏi, giáo viên tiêu biểu; tổ chức các Hội thảo nhằm giới thiệu về truyền thống giáo dục nước nhà, tổ chức phòng trưng bày các dụng cụ, đồ dùng giảng dạy, giáo vụ trực quan… Bên cạnh đó, sẽ nghiên cứu phục dựng lại một số hoạt động truyền thống như: Bình văn, bình thơ, cảnh lớp học chữ Hán thời xưa, lễ vinh quy bái tổ… Một trong những hoạt động rất có ý nghĩa nhằm chào mừng Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội của cán bộ, nhân viên Văn Miếu – Quốc Tử Giám là xây dựng thành công bộ “Hồ sơ bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Lê – Mạc (1442 – 1779)” đệ trình ủy ban UNESCO quốc tế đăng ký vào danh sách đề cử tham gia chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Nếu Hồ sơ này được phê duyệt sẽ là một sự kiện vô cùng có ý nghĩa để kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội đang đến gần. Trải qua bao thăng trầm và những biến cố của lịch sử, Văn Miếu – Quốc Tử Giám không còn nguyên vẹn như xưa. Những công trình thời Lý, thời Lê hầu như không còn nữa. Song Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn giữ nguyên được những nét tôn nghiêm cổ kính của một trường đại học có từ gần 1000 năm trước của Hà Nội, xứng đáng là khu di tích vǎn hoá hàng đầu và mãi là niềm tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.  Xưa kia Văn Miếu – Quốc tử Giám là chốn ”Cửa Khổng sân Trình”, là thánh đưòng của Nho Học, là nơi đào tạo và biểu dương nhân tài của đất nước. Ngày nay,Văn Miếu – Quốc Tử Giám là khu di tích lịch sử mang ý nghĩa biểu trưng cho tiến trình văn hoá Việt Nam, là một bằng chứng của sự đóng góp của Việt Nam vào nền văn minh Nho giáo của khu vực, là thánh đường của văn học, nơi tôn vinh nhân tài của đất nước.

 

Cinet tổng hợp

Sản phẩm cùng danh mục

Nhận xét